Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Thận trọng từ bước sơ cứu ban đầu

Chấn thương cột sống thường do các tai nạn gây ngã, va đập mạnh... Việc cứu giúp nạn nhân lúc này là vô cùng quan trọng và phải được tiến hành khẩn trương. Tuy nhiên trong lúc vội vã, chúng ta thường quên hoặc không biết rằng, những động tác cứu giúp không chuẩn rất có thể làm nặng thêm những tổn thương cho bệnh nhân, nhất là là chấn thương cột sống... Bệnh nhân có thể bị liệt và gặp các biến chứng nghiêm trọng nếu không được di chuyển đúng cách.

Có thể gây tàn phế suốt đời

Cột sống có cấu tạo bởi nhiều đốt sống ghép lại, bên trong có ống sống chứa tủy sống. Như vậy, cột sống bảo đảm 2 chức năng chính: chức năng cơ học - là điểm tựa, là “trụ cột” chịu sức nặng của tất cả cơ thể và chức năng thần kinh của tủy sống. Tủy sống là 1 bộ phận của hệ thần kinh trung ương tiếp nối với tiểu não và hành tủy để chi phối toàn bộ các ứng dụng vận động, cảm giác... của cơ thể từ cổ trở xuống theo phân vùng của các khoanh tủy. Vì là 1 xương lớn, phải chịu tải trọng cao nên cột sống rất dễ bị chấn thương và lúc đã bị chấn thương thường ảnh hưởng rất lớn tới chức năng chịu tải cơ học cũng như chức năng thần kinh. Khi tủy sống đã bị thương tổn, khả năng bệnh nhân bị tàn phế sẽ rất cao như phải thở máy hoàn toàn, liệt tứ chi trong tổn thương tủy cổ, liệt hai chi dưới phải ngồi xe lăn suốt đời trong tổn thương cột sống ngực, cột sống thắt lưng.

Nguyên nhân chấn thương cột sống

Có gần như nguyên do gây nên chấn thương cột sống. Hàng đầu là các nguyên do do tai nạn giao thông, tai nạn lao động như ngã cao từ trên giàn giáo xuống đất gây vỡ, lún, xẹp đốt sống. Các nguyên do do chấn thương tại các môn thể thao đua xe đạp, môtô, đua ngựa... Các nguyên do này gây ra tổn thương ở các đốt sống như di lệch, vỡ, lún, chèn ép, chảy máu, phù nề, thậm chí làm đứt ngang dây sống.

Cần sơ cứu đúng bệnh nhân bị chấn thương cột sống trước lúc di chuyển.

Những mức độ hiểm nguy khi bị tổn thương cột sống

Triệu chứng của chấn thương cột sống phụ thuộc mức độ và vị trí tổn thương. Nếu tổn thương chỉ tại phần các đốt sống chưa ảnh hưởng đến tủy sống, triệu chứng cốt yếu là đau ở chỗ vùng bị tổn thương. Nếu đã có chèn ép hoặc tổn thương dây sống, các triệu chứng sẽ phụ thuộc phân đoạn tủy bị tổn thương. Tổn thương các đốt sống cổ thường có khó thở do liệt cơ hô hấp (khám có thể thấy lồng ngực bệnh nhân di động rất kém hoặc có biểu hiện liệt cơ hoành), yếu hoặc liệt các cơ do phân đoạn tủy cổ chi phối (cơ hô hấp, chi trên, chi dưới), rối loạn cảm giác, rối loạn cơ tròn, mất phản xạ gân xương giai đoạn choáng tủy. Tổn thương các đốt sống ngực cũng có các triệu chứng chung như rối loạn cơ tròn; dị cảm, yếu, liệt chi; đau những khu vực bị tổn thương phía dưới thấp hơn. Tương tự như vậy, với tổn thương cột sống lưng các biểu hiện chính yếu là rối loạn cảm giác, yếu hoặc liệt hai chi dưới, rối loạn cơ tròn. Một triệu chứng tương đối hay gặp trong chấn thương cột sống đã có chèn ép, tổn thương tủy sống đó là tụt huyết áp (choáng tủy) nhưng mạch lại chậm. Đây có thể là dấu hiệu được chú ý phát hiện sớm tổn thương cột sống trên lâm sàng. Tuy nhiên, bản thân các dấu hiệu của chấn thương cột sống cũng đã khó phát hiện trên lâm sàng và điều này càng khó hơn trong điều kiện bệnh nhân bị tai nạn có không ít tổn thương phối hợp, điều kiện sơ cứu nghèo nàn, sự rối loạn lúc tai nạn xảy ra và người sơ cứu không phải đội cấp cứu chuyên nghiệp.

Các bước tiến hành sơ cứu bệnh nhân chấn thương cột sống

Nguyên tắc hàng đầu của cấp cứu bệnh nhân chấn thương cột sống là bất động, tránh di lệch đoạn cột sống đã bị tổn thương vì sẽ gây thêm tổn thương, thậm chí gây đứt ngang tủy sống. Việc chú ý cố định cột sống phải được làm ngay từ đầu khi tiếp xúc với bệnh nhân nghi ngờ bị chấn thương cột sống chứ không nhất thiết phải phát hiện được triệu chứng của chấn thương cột sống. Nói một cách khác, bệnh nhân nghi ngờ có chấn thương cột sống cần được cố định cột sống an toàn cho đến lúc tổn thương cột sống đã được loại trừ bằng chẩn đoán hình ảnh hoặc qua ý kiến của các thầy thuốc chuyên khoa. Tuyệt đối tránh loay hoay thăm khám tìm xem có tổn thương cột sống hay không vì việc này sẽ gây hiểm nguy cho bệnh nhân, làm mất cửa sổ can thiệp.

Với bệnh nhân nghi ngờ có tổn thương cột sống cổ, đặt đầu bệnh nhân nằm thẳng trục, ở tư thế trung gian (không cúi gập, ngửa hay xoay cổ) trên nền cứng (như miếng ván gỗ), chèn bao cát 2 bên để chống xoay cổ hoặc rất tốt nhất là có bộ cố định cột sống cổ chuyên dụng.

Đối với chấn thương cột sống ngực và cột sống lưng, đặt bệnh nhân nằm ngửa trên cáng cứng hoặc nằm sấp trên cáng mềm nếu như không có áo cố định chuyên dụng, sau đó cố định bệnh nhân về cáng tại ba điểm: đầu, vai và ngang khung chậu. Tuyệt đối không lôi, kéo, lật trở bệnh nhân nếu như không có không ít người phối hợp hoặc làm không đúng phương pháp. Khi vận chuyển bệnh nhân, nếu như không có cáng cứng phải có không ít người cùng đứng 1 bên đỡ bệnh nhân để đảm bảo cột sống bệnh nhân vẫn được cố định.

Đối với trường hợp bệnh nhân nặng cần cấp cứu hồi sinh tim phổi hoặc trường hợp gãy cột sống cổ gây ngừng thở vẫn phải Quan tâm vừa cấp cứu theo các bước cấp cứu ngừng tim ABC (A: Airway control, B: Breathing support, C: Circulation support) vừa kết hợp cố định tránh di lệch cột sống. Nếu cần đặt ống nội khí quản cấp cứu có thể đặt theo phương pháp ngược dòng hoặc qua nội soi ở bệnh nhân chấn thương cột sống cổ. Tránh khiêng, sốc, vác nạn nhân trên vai, cõng trên lưng, khiêng bằng cáng mềm, võng, chở bệnh nhân bằng xe đạp, xe máy, bẻ gập lưng trong xe taxi... dễ làm nâng cao tổn thương cột sống của bệnh nhân. Sau khi đã vận chuyển bệnh nhân đến cơ sở y tế, nhanh chóng xác định rõ tổn thương cột sống bằng thăm khám lâm sàng và bằng các phương luôn thể chẩn đoán hình ảnh để có thể dùng ngay liệu pháp corticoide liều cao và xét chỉ định phẫu thuật cấp cứu.

TS.BS. Vũ Đức Định

5 mẹo đơn thuần tránh cảm cúm trong mùa lạnh5 mẹo đơn thuần tránh cảm cúm trong mùa lạnhThực phẩm rất tốt cho đường tiêu hóaThực phẩm rất tốt cho đường tiêu hóaDễ nhầm lẫn giữa stress và lo âu!Dễ nhầm lẫn giữa stress và lo âu!

0 nhận xét:

Đăng nhận xét